Gửi thông tin tư vấn

Mời các bạn để lại thông tin dưới đây, chúng tôi sẽ liên hệ ngay với bạn!

BỎNG MẮT

Ngày đăng: 13/11/2020 bởi admin
Lượt xem: 2625

 

Bỏng mắt là tình trạng tổn thương mắt do các yếu tố lý hoá học. Đây là 1 cấp cứu đặc biệt trong nhãn khoa – tiên lượng chức năng và hình thể con mắt tuỳ thuộc rất lớn vào hoạt động cấp cứu ban đầu (ngay tại nơi bị bỏng và y tế tuyến trước).

Có 4 nhóm tác nhân gây bỏng mắt hay được kể tới, đó là:

- Hóa chất: gồm các chất gây thay đổi độ pH (acid, bazơ), các chất không gây thay đổi độ pH như các chất độc hóa học dùng trong chiến tranh và các hóa chất khác có thể có ảnh hưởng đối với tổ chức cơ thể (cồn, oxy già, iode…).

- Nhiệt độ: Nhiệt độ cao: bao gồm nhiệt khô (lửa, xăng, dầu, lửa điện…), nhiệt ướt (hơi nước nóng, nước sôi…). Nhiệt độ thấp: độ lạnh sâu (nitơ lỏng, tuyết carbonic…).

- Các vụ nổ phóng xạ: tổn thương do nhóm tác nhân này bao gồm cả tổn thương do sóng nổ, do tia xạ, do sức nóng, do chói lóa…

- Một số tác nhân ít gặp: đó có thể là tia lửa hàn, tia cực tím, tia laser...

2. Tác nhân và cơ chế gây bỏng mắt do hóa chất:

Cơ chế gây tổn thương cho mắt của từng nhóm tác nhân hoá chất là rất khác nhau, tuy nhiên, có một tình trạng diễn biến chung là tác nhân hoá chất khi vào mắt sẽ gây kích thích, hoại tử tổ chức, hoại tử và đông vón mạch máu, rối loạn dinh dưỡng và chuyển hoá mô - tế bào. Các rối loạn dinh dưỡng và chuyển hoá lại tiếp tục là nguyên nhân gây hoại tử tổ chức... Vòng xoắn bệnh lý cứ như vậy tiếp diễn và tiến triển để tạo nên bệnh cảnh lâm sàng bỏng mắt.

2.1. Các chất kiềm:

Tác nhân thường gặp là xút ăn da (NaOH), potat ăn da (KOH), vôi tôi (Ca(OH)2), amoniac (NH3), hydroxyt amon (NH4OH)...

Đặc điểm nổi bật của nhóm tác nhân này là khả năng phá huỷ mạnh, xuyên thấm nhanh vào tổ chức nhãn cầu. Độ xuyên thấm vào tổ chức được thấy nhanh nhất là của ammoniac: ngay  lập tức sau bỏng đã thấy nó có mặt ở tiền phòng, hydroxytnatri thì sau 3 phút đến 5 phút. Các chất kiềm khác có tốc độ xuyên ngấm chậm hơn, tuy nhiên với tốc độ ngấm đó cũng  đủ tạo cho  nhóm tác  nhân này có được độ phá hủy rất mạnh, độ xuyên ngấm sâu và rất khó tiên lượng tổn hại của nhãn cầu sau bỏng kiềm.

2.2. Các acid:

Các tác nhân hay gặp ở nhóm này là acid sulfuric, acid sulfurơ, acid hydrofluoric, acid clohydric, acid nitric, acid axetic ...

Về mặt cơ chế tác động thì ion H+ của acid gây thay đổi độ pH đưa tới tổn thương các mô, các anion thì gây đông vón và làm biến tính protein của tổ chức; tạo kết tủa và cũng chính nhờ sự kết tủa protein tạo hàng rào (hình ảnh “tấm kính mờ” hình thành ngay sau bỏng) ngăn không cho acid thấm sâu hơn vào mô mắt. Tuy nhiên màng kết tủa này chỉ ngăn được những acid yếu chứ những acid mạnh và đậm đặc thì vẫn tiếp tục ngấm sâu cho dù “tấm kính mờ” có được hình thành.

2.3. Bỏng nhiệt

Bỏng nhiệt có thể được chia thành bỏng do hơi nóng (thường gián tiếp do lửa, hơi nước sôi…) và bỏng do tiếp xúc trực tiếp với nhiệt (chất lỏng nóng hoặc kim loại nóng chảy như nhôm, gang, đồng…). Bỏng nhiệt không lan tỏa trên bề mặt nhãn cầu như hóa chất nhưng nặng nề do tổn thương mi gây biến dạng và hở mi nghiêm trọng. Mức độ tổn thương trong bỏng nhiệt tùy thuộc vào 3 yếu tố là nhiệt độ của vật gây bỏng, thời gian tiếp xúc với nhiệt và diện tích mô bị tiếp xúc với vật gây bỏng.

3. Lâm sàng bỏng mắt do hóa chất:

3.1. Phân độ:

Bảng 1- Phân loại bỏng theo Hughes- Roper-Hall.

Độ

Tiên lượng

Giác mạc

Kết mạc/vùng rìa

I

Tốt

Tổn thương biểu mô giác mạc

Không thiếu máu rìa

II

Tốt

Giác mạc mờ, thấy chi tiết mống mắt

Thiếu máu rìa <1/3

III

Dè dặt

Mất hoàn toàn biểu mô, nhu mô mờ, mống mắt và đồng tử không rõ chi tiết

Thiếu máu rìa 1/3-1/2

IV

Xấu

Ở tổn thương giác mạc, mống mắt và đồng tử không thấy rõ chi tiết

Thiếu máu rìa>1/2

 

3.2. Các giai đoạn lâm sàng:

Mc Culley J.P. (1987) chia lâm sàng bỏng mắt ra 4 giai đoạn.

+ Giai đoạn 1 - ngay sau bỏng:

Các dấu hiệu lâm sàng thể hiện ngay lập tức sau khi bị bỏng thể hiện diện tích, độ sâu của tổn thương. Những hình ảnh tổn thương này sẽ cho ta những chẩn đoán ban đầu. Diện tích bỏng sẽ được thấy rõ với thuốc nhuộm màu Fluorescein và độ sâu của bỏng giác mạc thì biểu hiện ở độ đục giác mạc. Tuy nhiên độ đục giác mạc chỉ đúng khi chẩn đoán độ sâu của bỏng do chất kiềm, còn bỏng do acid thì độ sâu của bỏng không song hành với độ đục giác mạc.

Độ sâu của bỏng kết mạc biểu hiện ở tình trạng thiếu máu hoặc hoại tử của kết mạc. Sự tổn thương củng mạc được xác định khi mà kết mạc ở vùng tương ứng bị hoại tử và có sự đông vón các mạch máu ở bề mặt củng mạc.

+ Giai đoạn 2 - giai đoạn cấp tính (từ 0 - 7 ngày):

Những mắt bỏng độ I, độ II thì đã được biểu mô hóa, hồi phục tổn thương và để lại sẹo giác mạc rất mỏng. Những mắt bỏng độ III trở lên thì sự tái tạo biểu mô ở giai đoạn này này còn rất kém, thậm chí là chưa có.

+ Giai đoạn 3 - giai đoạn sửa chữa sớm (7 - 21 ngày):

Những mắt bỏng độ I, II do còn tế bào nguồn vùng rìa cho nên có sự tăng sinh và di cư liên tục của tế bào biểu mô để tiếp tục hoàn thiện quá trình biểu mô hóa đã có.

Ở các mắt bỏng độ III trở lên, do mất hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn tế bào nguồn vùng rìa cho nên quá trình phục hồi biểu mô bị hạn chế nghiêm trọng.

+ Giai đoạn 4 - giai đoạn sửa chữa muộn (21 ngày đến vài tháng):

Quá trình hồi phục biểu mô của những mắt bỏng độ III trở lên có từ lúc này. Đầu giai đoạn sửa chữa sớm cũng là lúc đỉnh điểm của tình trạng viêm, của sự tổng hợp men collagenase - một men gây hoại tử giác mạc cho nên thủng giác mạc cũng hay xảy ra vào đầu tuần thứ 4 sau bỏng.

4. Điều trị bỏng mắt do hoá chất.

4.1. Tại nơi xảy ra tai nạn:

Tiên lượng của mắt bị bỏng tuỳ thuộc vào chất lượng cấp cứu ở những giây phút đầu tiên sau bỏng do đó việc xử trí cấp cứu bỏng mắt ở ngay nơi xảy ra tai nạn là điều cực kỳ cần thiết và cần được phổ biến, hướng dẫn đến mọi người.

Công việc khẩn cấp đầu tiên là loại trừ tác nhân gây bỏng ra khỏi mắt. Cách tốt nhất là dùng nước sạch để rửa mắt với khối lượng nhiều (vài lít). Phương thức rửa :

1. Cách tốt nhất là dùng vòi xịt nước vào mắt, xịt vào các túi cùng kết mạc (dùng tay mở mi, nâng mi).

2. Có thể để bệnh nhân ngửa mặt dưới vòi nước chảy hoặc dùng ấm rót, gáo múc dội …. cùng với sự mở mi chủ động hoặc thụ động.

3. Bệnh nhân ngâm mặt - mắt xuống nước nhưng phải cố gắng chớp mắt nhiều lần ở trong nước để nước xâm nhập vào các túi kết mạc hoà loãng tác nhân. Nếu bỏng do a xít nồng độ cao, da mi ngay lập tức bị đông cứng thì cách làm này không có hiệu quả do mắt không còn chớp được.

Rửa mắt ngay tại nơi xảy ra tai nạn là biện pháp đơn giản nhưng cực kỳ giá trị. Tác nhân gây bỏng sẽ không còn đọng lại ở bề mặt nhãn cầu và túi kết mạc để tiếp tục ngấm vào tổ chức. Hết sức tránh quan niệm cứ bỏng mắt là phải chuyển ngay lên tuyến trên. Thành công của việc điều trị bỏng tuỳ thuộc vào những giây phút cấp cứu đầu tiên này.

Điều trị bỏng mắt tại bệnh viện:

·        Sau khi sơ cứu, bệnh nhân được đo pH mắt ngay lập tức. Nếu pH chưa trung tính cần tiếp tục rửa mắt bằng dung dịch đẳng trương đến khi pH = 7. Nếu tổn thương đã ngấm sâu có thể rửa mắt liên tục bằng cách nhỏ giọt vào mắt qua hệ thống dây truyền, đồng thời phải tiến hành rửa sạch lệ đạo, tránh viêm dính về sau.

·        Chống viêm: phản ứng viêm ở mắt làm tăng lượng men phá hủy collagen dẫn đến nhăn giác mạc, vì vậy cần được kiểm soát sớm. Thuốc chống viêm thường dùng nhất là Corticoid toàn thân và tại chỗ, đặc biệt trong 10 ngày đầu. Sau đó cần được thay thế bằng non-steroid, atropin 1% cũng góp phần giảm đau, chống viêm, chống dính mi.

·        Chống hoại tử giác mạc: thường xảy ra từ 7 đến 21 ngày sau bỏng do các men phân hủy protein, vì vậy cần có biện pháp ức chế men này. Dùng thuốc toàn thân hoặc tại chỗ.

·        Chống nhiễm khuẩn: Khử sạch toàn thân và tại chỗ. Đặc biệt Tetracyclin vừa có tác dụng kháng khuẩn vừa có tác dụng ức chế men collagenase.

·        Phòng dính mi cầu bằng cách tra mỡ kháng sinh vào cùng đồ trên và dưới, day nhiều lần trong ngày hoặc đặt khuôn chống dính vào ngày thứ 2 – 3 sau bỏng. Tuy nhiên ở nhiễm bỏng nặng đặc biệt, người ta chấp nhận dính mi cầu để tăng nguồn nuôi dưỡng cho bán phần trước.

·        Tăng cường dinh dưỡng kết giác mạc bằng cách tra mắt với chế phẩm có chứa vitamin nhóm A, B, C hoặc tiêm huyết thanh tự thân dưới kết mạc. Tăng cường khẩu phần ăn giàu protein và vitamin, uống nhiều nước để thải trừ độc. Một số trường hợp có thể khâu co mi tạm thời.

Có thể dùng thuốc giảm đau và an thần theo đường tại chỗ và toàn thân cùng các liệu pháp tâm lý, an ủi, động viên bệnh nhân.

Trong những trường hợp bị bỏng nặng có thể được chỉ định phẫu thuật cấp cứu.

 

Nguồn:http://www.benhvien103.vn/vietnamese/bai-giang-chuyen-nganh/mat/bong-mat/965/

Sách Nhãn Khoa tập 2 Bộ Y Tế chủ biên: Đỗ Như Hơn.

           Nguyễn Nữ Hoàng Yên

                   Khoa Điều Trị - Bệnh viện Mắt Quảng Nam

Bình luận facebook

Danh mục dịch vụ

Thông tin liên hệ

Gọi ngay để được tư vấn
QUẢNG NAM

An Phú, Tam Kỳ, Quảng Nam.

0235 3818 996

bvmat.qna@gmail.com

Thời gian làm việc

Thời gian làm việc từ thứ hai đến thứ sáu trừ các ngày nghỉ lễ theo quy định của nhà nước. Cấp cứu 24/7.

  • Sáng: Từ 7h00 đến 11h30
  • Chiều: Từ 13h30 đến 17h00

Đặt lịch khám